Lịch sử Cô_đầu

Tranh vẽ miêu tả một nhóm cô đầu Triều Tiên ngồi vấn tóc trước khi hầu quan khách

Về kỹ nữ nói chung, loại hình phục vụ cho nam giới này đã có từ thời rất xa xưa tại Trung Quốc, Nhật BảnTriều Tiên cũng như Việt Nam. Ở Triều Tiên, kisaeng (tức cô đầu) luôn phải coi mình là một nghệ sĩ thực thụ thì xã hội chỉ đơn giản coi họ là những kỹ nữ mua vui.

Để trở thành một kisaeng thực thụ, thông thường những bé gái ngay từ tuổi khi còn nhỏ đã được gia đình gửi vào các trường đào tạo cô đầu.

Trong mắt nhiều người, cuộc sống của các kisaeng là cả một thế giới thần bí khó hiểu, đầy “thâm cung bí sử”, bởi lẽ nó là một loại dịch vụ của nữ giới phục vụ cho nam giới, mà mối quan hệ qua lại giữa hai giới này bao giờ cũng chứa đựng vô vàn bí ẩn. Ai cũng biết là trong xã hội nam quyền, một số phụ nữ vì để kiếm sống mà phải phục vụ tình dục cho nam giới. Bán dâm là loại hình dịch vụ cổ xưa nhất không dân tộc nào và không nước nào là không có. Nhiều nhà sử học Triều Tiên đã cho rằng: “Ở thời kỳ đó, bậc quyền quý thường coi Gisaeng là dạng gái gọi cao cấp”.

Thời đại Joseon của Triều Tiên, Gisaeng không chỉ là những người biết rót rượu phục vụ nam giới. Thực chất đây là một loại ả đào cấp cao, nghĩa là loại phụ nữ làm dịch vụ giúp vui cho các buổi vui chơi của nam giới bằng hình thức biểu diễn tài nghệ văn hóa., khi cần vẫn có người đồng ý bán dâm. Vì thế không giống như loại hình Geisha của Nhật chuyên làm vui lòng khách nam giới bằng các hình thức nghệ thuật lành mạnh, cao cấp thì các Gisaeng đôi khi phải bán mình và chấp nhận đau khổ suốt cuộc đời.

Vào thời đại Joseon (bắt đầu từ thế kỷ thứ 14), dân chúng ở xứ sở Cao Ly đều rất tôn sùng đạo Phật. Ở những nơi đền chùa miếu mạo không chỉ vào những ngày lề hội, những ngày thường người dân cũng tập trung rất đông tại những nơi thiêng liêng này để cầu mong sự may mắn. Chính vì vậy mà xung quanh những đền chùa miếu mạo này mọc lên rất nhiều những quán trà phục vụ khách. Và để thu hút khách đến với quán của mình, người ta đã tuyển những cô gái xinh đẹp biết múa hát để biểu diễn phục vụ khách hàng. Dần dần loại hình này được mở rộng sang các loại hình khác như quán rượu và các kỹ viện.

Quả thực, việc ra đời loại hình kisaeng mới đã thu hút được sự chú ý của những đấng nam nhi của đất nước Cao Ly. Các hình thức nghệ thuật của kisaeng thời đại này phong phú dần, không chỉ có ca múa mà có nhiều thứ khác như trà đạo, ngâm thơ kể chuyện, cách đi đứng duyên dáng, trò chuyện lịch sự khéo léo, cách tiếp khách và đặc biệt là phải biết đánh đàn tranh 12 dây gayageum và đàn tranh 6 dâygeomungo... Tại nhiều kỹ viện, có những kisaeng được đào tạo từ bé. Lúc đầu các kisaeng chủ yếu phục vụ cho tầng lớp bình dân, về sau họ phục vụ cho cả tầng lớp thương nhân, thậm chí là cả giai cấp thống trị ở thời điểm đó.Để trở thành một kisaeng thực thụ, thông thường những bé gái ngay từ tuổi khi còn nhỏ đã được gia đình gửi vào các trường đào tạo kisaeng. Ở đây họ phải học rất nhiều thứ, từ ngâm thơ đọc sách kể chuyện, múa cổ điển, hát các bài ca truyền thống, chơi 2 loại đàn tranh là gayageum và geomungo và làm thơ sijo- những loại hình văn hóa riêng của Triều Tiên. Ngoài ra các gisaeng cũng phải học, chơi trống, trà đạo, thư pháp, trò chuyện, trang điểm... cho tới cách đi đứng yểu điệu, cách cúi người khi chào, cách tiếp rượu... Mỗi kisaeng đều phải khổ luyện để có thể trở thành một kỹ nữ tài năng. Bởi không chỉ cần có sắc đẹp, họ cần phải có tài thì mới mong tồn tại được trong xã hội Triều Tiên khi xưa. Vì thế họ là một bậc thầy về việc giữ gìn sức khỏe, chăm sóc sắc đẹp và kiên trì trong luyện tập đến mức khó tin.

Theo các nhà sử học của Triều Tiên cho biết, chương trình đào tạo này sử dụng các kiến thức tâm lý, xã hội-nhân văn rất phong phú. Qua quá trình đào tạo gian khổ, cuối cùng họ trở thành loại người có văn hóa ứng xử lịch sự duyên dáng, khả năng giao tiếp vô cùng tự nhiên và có sức hấp dẫn nam giới. Sở dĩ phải trải qua quá trình khổ luyện này là khách hàng của các gisaeng đa phần đến từ nhiều nhà quý tộc, các công tôn vương tử hoặc những người có địa vị cao trong xã hội khi đó.

Sau quá trình khổ luyện vài năm, các kisaeng sẽ được gửi tới các kỹ viện để phục vụ khách. Đa phần trong số này là rót rượu và mua vui cho khách bằng các loại hình nghệ thuật đã được học tại ‘trường”. Nếu khách có nhu cầu, thì có một số Gisaeng sẽ phục vụ “tới bến” để làm hài lòng khách.

Vào thời nhà Lý ở Việt Nam, có ca kỹ họ Đào, rất vừa ý Lý Thái Tổ nên thường ban thưởng, từ đó các con hát hay được gọi là Đào nương[1]. Tuy nhiên theo Công dư tiệp ký, "Cuối đời nhà Hồ (1400 – 1407), có người con hát họ Đào quê ở làng Đào Xá, tỉnh Hưng Yên, lập mưu giết được giặc Minh. Khi nàng chết, dân nhớ ơn lập đền thờ, gọi thôn nàng ở là thôn Cô Đầu. Từ đấy những người đi hát được gọi là cô đầu".

Sang thời nhà Lê, nghề con hát trở thành một dạng nghề hèn mạt, đánh đồng với nô lệ, ai xuất thân từ nhà con hát đều không thể làm quan (như Đào Duy Từ). Cứ theo Việt sử tiêu án, khi ấy các con hát ngoài gọi là Cô đầu, còn được gọi là Náo nương (鬧娘) hay Cô Náo (姑鬧), Náo Hát (鬧歌)... các danh xưng. Các con hát không biểu diễn ở cung đình vì thân phận thấp hèn, họ chỉ quanh quẩn ở các đình làng hay ca quán tại địa phương.

Vào thời nhà Nguyễn, những ghi chép chi tiết về thú chơi cô đầu là vào những năm Pháp thuộc và ở phía Bắc, với địa danh nổi nhất là phố Khâm Thiên. Cô đầu sống thành từng nhóm, trong các nhà chứa khách đến hát ca trù. Thú chơi này mang nhiều tính tao nhã hơn là trò chơi thân xác, mua vui thông thường.